RAID LÀ GÌ?
RAID
là chữ viết tắt của Redundant Array of Independent Disks. Ban đầu, RAID
được sử dụng như một giải pháp phòng hộ vì nó cho phép ghi dữ liệu lên
nhiều đĩa cứng cùng lúc. Về sau, RAID đã có nhiều biến thể cho phép
không chỉ đảm bảo an toàn dữ liệu mà còn giúp gia tăng đáng kể tốc độ
truy xuất dữ liệu từ đĩa cứng. Dưới đây là năm loại RAID được dùng phổ
biến:
1. RAID 0
Đây
là dạng RAID đang được người dùng ưa thích do khả năng nâng cao hiệu
suất trao đổi dữ liệu của đĩa cứng. Đòi hỏi tối thiểu hai đĩa cứng, RAID
0 cho phép máy tính ghi dữ liệu lên chúng theo một phương thức đặc biệt
được gọi là Striping. Ví dụ bạn có 8 đoạn dữ liệu được đánh số từ 1 đến
8, các đoạn đánh số lẻ (1,3,5,7) sẽ được ghi lên đĩa cứng đầu tiên và
các đoạn đánh số chẵn (2,4,6,8) sẽ được ghi lên đĩa thứ hai. Để đơn giản
hơn, bạn có thể hình dung mình có 100MB dữ liệu và thay vì dồn 100MB
vào một đĩa cứng duy nhất, RAID 0 sẽ giúp dồn 50MB vào mỗi đĩa cứng
riêng giúp giảm một nửa thời gian làm việc theo lý thuyết. Từ đó bạn có
thể dễ dàng suy ra nếu có 4, 8 hay nhiều đĩa cứng hơn nữa thì tốc độ sẽ
càng cao hơn. Tuy nghe có vẻ hấp dẫn nhưng trên thực tế, RAID 0 vẫn ẩn
chứa nguy cơ mất dữ liệu. Nguyên nhân chính lại nằm ở cách ghi thông tin
xé lẻ vì như vậy dữ liệu không nằm hoàn toàn ở một đĩa cứng nào và mỗi
khi cần truy xuất thông tin (ví dụ một file nào đó), máy tính sẽ phải
tổng hợp từ các đĩa cứng. Nếu một đĩa cứng gặp trục trặc thì thông tin
(file) đó coi như không thể đọc được và mất luôn. Thật may mắn là với
công nghệ hiện đại, sản phẩm phần cứng khá bền nên những trường hợp mất
dữ liệu như vậy xảy ra không nhiều.
Có
thể thấy RAID 0 thực sự thích hợp cho những người dùng cần truy cập
nhanh khối lượng dữ liệu lớn, ví dụ các game thủ hoặc những người chuyên
làm đồ hoạ, video số.
2. RAID 1
Đây
là dạng RAID cơ bản nhất có khả năng đảm bảo an toàn dữ liệu. Cũng
giống như RAID 0, RAID 1 đòi hỏi ít nhất hai đĩa cứng để làm việc. Dữ
liệu được ghi vào 2 ổ giống hệt nhau (Mirroring). Trong trường hợp một ổ
bị trục trặc, ổ còn lại sẽ tiếp tục hoạt động bình thường. Bạn có thể
thay thế ổ đĩa bị hỏng mà không phải lo lắng đến vấn đề thông tin thất
lạc. Đối với RAID 1, hiệu năng không phải là yếu tố hàng đầu nên chẳng
có gì ngạc nhiên nếu nó không phải là lựa chọn số một cho những người
say mê tốc độ. Tuy nhiên đối với những nhà quản trị mạng hoặc những ai
phải quản lý nhiều thông tin quan trọng thì hệ thống RAID 1 là thứ không
thể thiếu. Dung lượng cuối cùng của hệ thống RAID 1 bằng dung lượng của
ổ đơn (hai ổ 80GB chạy RAID 1 sẽ cho hệ thống nhìn thấy duy nhất một ổ
RAID 80GB).
3. RAID 0+1
Có
bao giờ bạn ao ước một hệ thống lưu trữ nhanh nhẹn như RAID 0, an toàn
như RAID 1 hay chưa? Chắc chắn là có và hiển nhiên ước muốn đó không chỉ
của riêng bạn. Chính vì thế mà hệ thống RAID kết hợp 0+1 đã ra đời,
tổng hợp ưu điểm của cả hai “đàn anh”. Tuy nhiên chi phí cho một hệ
thống kiểu này khá đắt, bạn sẽ cần tối thiểu 4 đĩa cứng để chạy RAID
0+1. Dữ liệu sẽ được ghi đồng thời lên 4 đĩa cứng với 2 ổ dạng Striping
tăng tốc và 2 ổ dạng Mirroring sao lưu. 4 ổ đĩa này phải giống hệt nhau
và khi đưa vào hệ thống RAID 0+1, dung lượng cuối cùng sẽ bằng ½ tổng
dung lượng 4 ổ, ví dụ bạn chạy 4 ổ 80GB thì lượng dữ liệu “thấy được” là
(4*80)/2 = 160GB.
4. RAID 5
Đây
có lẽ là dạng RAID mạnh mẽ nhất cho người dùng văn phòng và gia đình
với 3 hoặc 5 đĩa cứng riêng biệt. Dữ liệu và bản sao lưu được chia lên
tất cả các ổ cứng. Nguyên tắc này khá rối rắm. Chúng ta quay trở lại ví
dụ về 8 đoạn dữ liệu (1-8) và giờ đây là 3 ổ đĩa cứng. Đoạn dữ liệu số 1
và số 2 sẽ được ghi vào ổ đĩa 1 và 2 riêng rẽ, đoạn sao lưu của chúng
được ghi vào ổ cứng 3. Đoạn số 3 và 4 được ghi vào ổ 1 và 3 với đoạn sao
lưu tương ứng ghi vào ổ đĩa 2. Đoạn số 5, 6 ghi vào ổ đĩa 2 và 3, còn
đoạn sao lưu được ghi vào ổ đĩa 1 và sau đó trình tự này lặp lại, đoạn
số 7,8 được ghi vào ổ 1, 2 và đoạn sao lưu ghi vào ổ 3 như ban đầu. Như
vậy RAID 5 vừa đảm bảo tốc độ có cải thiện, vừa giữ được tính an toàn
cao. Dung lượng đĩa cứng cuối cùng bằng tổng dung lượng đĩa sử dụng trừ
đi một ổ. Tức là nếu bạn dùng 3 ổ 80GB thì dung lượng cuối cùng sẽ là
160GB.
5. JBOD
JBOD
(Just a Bunch Of Disks) thực tế không phải là một dạng RAID chính
thống, nhưng lại có một số đặc điểm liên quan tới RAID và được đa số các
thiết bị điều khiển RAID hỗ trợ. JBOD cho phép bạn gắn bao nhiêu ổ đĩa
tùy thích vào bộ điều khiển RAID của mình (dĩ nhiên là trong giới hạn
cổng cho phép). Sau đó chúng sẽ được “tổng hợp” lại thành một đĩa cứng
lớn hơn cho hệ thống sử dụng. Ví dụ bạn cắm vào đó các ổ 10GB, 20GB,
30GB thì thông qua bộ điều khiển RAID có hỗ trợ JBOD, máy tính sẽ nhận
ra một ổ đĩa 60GB. Tuy nhiên, lưu ý là JBOD không hề đem lại bất cứ một
giá trị phụ trội nào khác: không cải thiện về hiệu năng, không mang lại
giải pháp an toàn dữ liệu, chỉ là kết nối và tổng hợp dung lượng mà
thôi.
6. Một số loại RAID khác
Ngoài
các loại được đề cập ở trên, bạn còn có thể bắt gặp nhiều loại RAID
khác nhưng chúng không được sử dụng rộng rãi mà chỉ giới hạn trong các
hệ thống máy tính phục vụ mục đích riêng, có thể kể như: Level 2
(Error-Correcting Coding), Level 3 (Bit-Interleaved Parity), Level 4
(Dedicated Parity Drive), Level 6 (Independent Data Disks with Double
Parity), Level 10 (Stripe of Mirrors, ngược lại với RAID 0+1), Level 7
(thương hiệu của tập đoàn Storage Computer, cho phép thêm bộ đệm cho
RAID 3 và 4), RAID S (phát minh của tập đoàn EMC và được sử dụng trong
các hệ thống lưu trữ Symmetrix của họ). Bên cạnh đó còn một số biến thể
khác, ví dụ như Intel Matrix Storage cho phép chạy kiểu RAID 0+1 với chỉ
2 ổ cứng hoặc RAID 1.5 của DFI trên các hệ BMC 865, 875. Chúng tuy có
nhiều điểm khác biệt nhưng đa phần đều là bản cải tiến của các phương
thức RAID truyền thống.
BẠN CẦN GÌ ĐỂ CHẠY RAID?
Để
chạy được RAID, bạn cần tối thiểu một card điều khiển và hai ổ đĩa cứng
giống nhau. Đĩa cứng có thể ở bất cứ chuẩn nào, từ ATA, Serial ATA hay
SCSI, tốt nhất chúng nên hoàn toàn giống nhau vì một nguyên tắc đơn giản
là khi hoạt động ở chế độ đồng bộ như RAID, hiệu năng chung của cả hệ
thống sẽ bị kéo xuống theo ổ thấp nhất nếu có. Ví dụ khi bạn bắt ổ 160GB
chạy RAID với ổ 40GB (bất kể 0 hay 1) thì coi như bạn đã lãng phí 120GB
vô ích vì hệ thống điều khiển chỉ coi chúng là một cặp hai ổ cứng 40GB
mà thôi (ngoại trừ trường hợp JBOD như đã đề cập). Yếu tố quyết định tới
số lượng ổ đĩa chính là kiểu RAID mà bạn định chạy. Chuẩn giao tiếp
không quan trọng lắm, đặc biệt là giữa SATA và ATA. Một số BMC đời mới
cho phép chạy RAID theo kiểu trộn lẫn cả hai giao tiếp này với nhau.
Điển hình như MSI K8N Neo2 Platinum hay dòng DFI Lanparty NForce4.
Bộ
điều khiển RAID (RAID Controller) là nơi tập trung các cáp dữ liệu nối
các đĩa cứng trong hệ thống RAID và nó xử lý toàn bộ dữ liệu đi qua đó.
Bộ điều khiển này có nhiều dạng khác nhau, từ card tách rời cho dến chip
tích hợp trên BMC.
Đối
với các hệ thống PC, tuy chưa phổ biến nhưng việc chọn mua BMC có RAID
tích hợp là điều nên làm vì nói chung đây là một trong những giải pháp
cải thiện hiệu năng hệ thống rõ rệt và rẻ tiền nhất, chưa tính tới giá
trị an toàn dữ liệu của chúng. Trong trường hợp BMC không có RAID, bạn
vẫn có thể mua được card điều khiển PCI trên thị trường với giá không
cao lắm.
Một
thành phần khác của hệ thống RAID không bắt buộc phải có nhưng đôi khi
là hữu dụng, đó là các khay hoán đổi nóng ổ đĩa. Nó cho phép bạn thay
các đĩa cứng gặp trục trặc trong khi hệ thống đang hoạt động mà không
phải tắt máy (chỉ đơn giản là mở khóa, rút ổ ra và cắm ổ mới vào). Thiết
bị này thường sử dụng với ổ cứng SCSI và khá quan trọng đối với các hệ
thống máy chủ vốn yêu cầu hoạt động liên tục.
Về
phần mềm thì khá đơn giản vì hầu hết các hệ điều hành hiện đại đều hỗ
trợ RAID rất tốt, đặc biệt là Microsoft Windows. Nếu bạn sử dụng Windows
XP thì bổ sung RAID khá dễ dàng. Quan trọng nhất là trình điều khiển
nhưng thật tuyệt khi chúng đã được kèm sẵn với thiết bị. Việc cài đặt
RAID có thể gây một vài rắc rối nếu bạn thiếu kinh nghiệm nhưng vẫn có
hướng giải quyết trong phần sau của bài viết.
Có
hai trường hợp sẽ xảy ra khi người dung nâng cấp RAID cho hệ thống. Nếu
hệ thống RAID bổ sung chỉ được dùng với mục đích lưu trữ hoặc làm nơi
trao đổi thông tin tốc độ cao thì việc cài đặt rất đơn giản. Tuy nhiên
nếu bạn dự định dùng nó làm nơi cài hệ điều hành, phần mềm thì sẽ rất
rắc rối và phải cài đặt lại toàn bộ từ con số 0.
RAID CHO RIÊNG MÌNH
1. Chọn kiểu RAID
Vậy
là bạn đã quyết tâm nâng cấp hệ thống của mình lên tầm cao mới. Nhưng
chọn lựa kiểu RAID phù hợp không hẳn đã đơn giản như bạn nghĩ. Với điều
kiện tại Việt , bạn có thể chọn một số
giải pháp RAID bao gồm 0, 1, 0+1 và 5. Trong đó RAID 0, 1 là kinh tế
nhất và thường có trên hầu hết các dòng BMC hiện tại. Kiểu RAID 0+1 và 5
thường chỉ có trên những loại cao cấp, đắt tiền.
RAID
0 chắc chắn là lựa chọn đem lại tốc độ cao nhất nhưng cũng là thứ mong
manh nhất. Ví dụ bạn sử dụng 4 đĩa cứng ở RAID 0 thì tốc độ truyền dữ
liệu có thể lên tới hơn 100MB/s. Đây là con số hết sức hấp dẫn với bất
kì người dùng PC nào. Tuy thế khả năng mất dữ liệu cũng tăng tỉ lệ lên 4
lần. Đĩa cứng máy tính là một sản phẩm máy móc có chuyển động và sẽ bị
“lão hóa” dần sau thời gian dài sử dụng (thật may là thời gian đĩa cứng
lão hóa khá dài). Ngoài ra, trục trặc điện lưới hay lỗi phần điều khiển
cũng có thể dẫn tới thảm họa. Vì vậy, không nên sử dụng RAID 0 để lưu
trữ dữ liệu lâu dài nhưng nó lại là lựa chọn số một cho các ổ đĩa tạm
cần tốc độ cao, ví dụ lưu trữ cơ sở dữ liệu web. Và nếu bạn định sử dụng
lâu dài, hãy thêm một vài ổ cứng và chuyển sang hệ thống RAID 0+1. Điều
đó thực sự lý tưởng nếu có nguồn tài chính dồi dào.
RAID
1 nếu chạy một mình sẽ không có tác dụng gì ngoài chuyện tạo thêm một ổ
đĩa nữa giống hệt như ổ chính. Người dùng thông thường có thể không
thấy hứng thú với RAID 1, ngoại trừ những ai phải lưu trữ và quản lý
những tài liệu thực sự quan trọng như các máy chủ lưu thông tin khách
hàng hoặc tài khoản. Nếu dùng RAID 1, bạn nên cân nhắc bổ sung thêm các
khay tráo đổi nóng vì sẽ giúp phục hồi dữ liệu nhanh chóng hơn (bạn có
thể tháo lắp ổ và tiến hành tạo bản sao sang ổ mới bổ sung trong khi hệ
thống đang làm việc bình thường).
(PC World)
RAID
5 vào thời điểm hiện tại đang là lựa chọn số 1 cho mọi loại hình máy
tính nhờ khả năng vừa sửa lỗi vừa tăng tốc. Nếu bạn dự kiến xây dựng một
hệ thống RAID từ 4 đĩa cứng trở lên thì RAID 5 chắc chắn là giải pháp
tối ưu.
Các
loại RAID kết hợp, ví dụ RAID 0+1 hay RAID 50 (5+0) thường cho những
đặc điểm của các kiểu RAID thành phần, tuy nhiên bạn nên cân nhắc và chỉ
sử dụng nếu cần thiết vì chi phí cho linh kiện khá cao. Chúng ta có thể
tổng kết lại như trong bảng.
2. Chọn lựa phần cứng
Việc
đầu tiên là chọn lựa linh kiện phù hợp. Về chipset điều khiển RAID, bạn
không có nhiều lựa chọn vì cơ bản chúng được tích hợp trên BMC. Tuy
nhiên bạn cần chú ý những điểm sau.
Hiện
tại bộ điều khiển RAID tích hợp thường gồm hai loại chính: chip điều
khiển gắn lên BMC hoặc hỗ trợ sẵn từ trong chipset. Thông dụng gồm:
Chipset tích hợp:
+ Intel ICH5R, ICH6, ICH7. Những chipset cầu nam (SouthBridge) này đi kèm với dòng i865/875/915/925/945/955.
+ nVIDIA nForce2-RAID (AMD), nForce 3 Series (AMD A64), nForce 4 Series (AMD A64/ Intel 775).
Chip
điều khiển bên ngoài: Có khá nhiều chủng loại của các hãng khác nhau
như Promise Technology, Silicon Image, Adaptec, nhưng thường thấy nhất
là hai dòng Silicon Image Sil3112 và 3114.
Những
loại được tích hợp trong chip cầu nam thường có độ trễ thấp, dễ sử
dụng. Tuy nhiên tính năng thường không nhiều và phần mềm còn hạn chế,
đôi khi “lạm dụng” tài nguyên hệ thống cho tác vụ đọc/ghi. Các loại sử
dụng chip của hãng thứ ba thì độ trễ thường cao hơn (không đáng kể),
phần mềm và tính năng có phần phong phú hơn, sử dụng tối thiểu tài
nguyên; các loại card rời thì dễ thay đổi, tháo lắp khi cần thiết. Tuy
vậy bạn cần chú ý một điều cực kì quan trọng là loại Silicon Image
Sil3112 có tính tương thích tương đối kém, do đó khi chuyển sang các hệ
RAID khác có thể bị mất dữ liệu. Sil3114 và cao hơn đã khắc phục được
lỗi này. Các hệ nForce và ICH5,6,7 có thể trao đổi ổ cứng qua lại dễ
dàng, BIOS RAID của chúng cũng thông minh hơn và thường có khả năng nhận
diện những nhóm ổ cứng RAID định dạng sẵn.
Một
số BMC mới nhất ví dụ như DFI Lanparty NF4 SLI-DR có hỗ trợ cả RAID 5.
Về giao tiếp dành cho máy tính để bàn, thông thường bạn chỉ tìm thấy các
loại PATA hoặc SATA và vì phải sử dụng nhiều cáp, SATA sẽ là lựa chọn
sáng suốt hơn ngay cả khi không tính đến tốc độ nhanh hơn và nhiều cải
tiến công nghệ. Nếu dồi dào về tài chính, bạn có thể để mắt đến một số
sản phẩm tương đối chuyên nghiệp cho phép cắm thêm RAM để dùng như bộ
đệm cực lớn nhằm tăng tốc độ đáng kể.
Về
ổ cứng thì bạn nên chọn các loại có khả năng truyền dữ liệu lớn và tốc
độ truy xuất nhanh. Tốc độ truy xuất (Access Time) chỉ định thời gian
cần thiết để đĩa cứng tìm thấy dữ liệu cần dùng và thông số này càng nhỏ
càng tốt. Ngoài ra ổ cứng cũng nên có bộ đệm lớn (8MB trở lên), một số
model mới có dung lượng bộ đệm 16MB và những công nghệ cho phép tăng
hiệu năng làm việc đáng kể (như Seagate NCQ chẳng hạn). Tốt nhất các ổ
cứng nên giống nhau vì RAID sẽ bị ảnh hưởng nếu có ổ đĩa chậm chạp hoặc
dung lượng bé theo đúng tiêu chí “con sâu làm rầu nồi canh”.
3. Cài đặt RAID
Việc cài đặt RAID nói chung chủ yếu dựa vào BIOS của mainboard, RAID Controller và hầu như không có gì khó khăn.
Sau
khi đã cắm ổ cứng vào đúng vị trí RAID trên bo mạch (tham khảo tài liệu
đi kèm sản phẩm), bạn vào BIOS của BMC để bật bộ điều khiển RAID và chỉ
định các cổng liên quan (thường trong mục Integrated Peripherals).
Sau
thao tác này, bạn sẽ lưu thông số rồi khởi động lại máy tính. Chú ý
thật kĩ màn hình thông báo và nhấn đúng tổ hợp phím khi máy tính yêu cầu
(có thể là Ctrl+F hoặc F4 tùy bộ điều khiển RAID) để vào BIOS RAID.
Đối
với BIOS RAID, mặc dù mỗi loại có một giao diện khác nhau (tham khảo
tài liệu đi kèm) nhưng về cơ bản bạn phải thực hiện những thao tác sau:
+ Chỉ định những ổ cứng sẽ tham gia RAID.
+ Chọn kiểu RAID (0/1/0+1/5).
+
Chỉ định Block Size: Đây là chìa khóa ảnh hưởng rất lớn tới hiệu năng
của giàn ổ cứng chạy RAID. Đối với RAID dạng Striping, Block size cũng
có nghĩa là Stripe Size. Nếu thông số này thiết lập không phù hợp với
nhu cầu sử dụng thì sẽ gây lãng phí bộ nhớ và giảm hiệu năng. Ví dụ nếu
Block Size có giá trị là 64KB thì tối thiểu sẽ có 64KB được ghi vào ổ
đĩa trong mọi trường hợp, ngay cả khi đó là một file text có dung lượng
2KB. Vì thế giá trị này nên xấp xỉ tương ứng với kích thước trung bình
của các file bạn dùng. Nếu ổ cứng chứa nhiều file nhỏ ví dụ tài liệu
Word, bạn nên để block size bé, nếu chứa nhiều phim ảnh hoặc nhạc, block
size lớn sẽ cho hiệu năng cao hơn (nhất là với hệ thống RAID 0).
Bên
cạnh đó, Block size còn có một chức năng khác quyết định việc file sẽ
được ghi vào đâu. Quay về với ví dụ Block Size 64KB, nếu như file có
kích thước nhỏ hơn 64KB, nó sẽ chỉ được ghi vào một ổ cứng trong hệ
thống RAID và như vậy sẽ không có bất cứ sự cải thiện hiệu năng nào.
Trong một trường hợp khác, một file có kích thước 150KB sẽ được ghi vào 3
ổ đĩa với các đoạn 64KB + 64KB + 22KB và bộ điều khiển có thể đọc thông
tin từ ba ổ cùng lúc cho phép tăng tốc đáng kể. Nếu bạn chọn block size
là 128KB thì file đó chỉ được ghi vào 2 ổ 128KB + 22KB mà thôi. Thực tế
bạn nên chọn Block Size là 128KB cho các máy tính để bàn trừ khi có nhu
cầu riêng.
Sau
khi bộ điều khiển đã nhận biết hoàn hảo hệ đĩa cứng mới, bạn tiến hành
cài đặt hệ điều hành cũng như format ổ RAID. Windows XP là một lựa chọn
sáng suốt.
Việc
cài đặt Windows nói chung cũng giống như bình thường nhưng bạn cần
chuẩn bị một ổ đĩa mềm và đĩa mềm chứa trình điều khiển (driver) cho bộ
điều khiển RAID. Ngay sau khi nhấn bàn phím để vào cài đặt, bạn phải chú
ý dòng chữ phía dưới màn hình cài Windows để nhấn F6 kịp lúc. Sau đó
chờ một lát và khi được hỏi, bạn nhấn S để đưa driver RAID vào cài đặt.
Các bước còn lại, bạn thao tác đúng như với việc cài đặt trên một đĩa cứng bình thường.
Sau
khi đã ổn định được hệ thống, bạn chú ý cài thêm những tiện ích điều
khiển hệ thống RAID để tận dụng các tính năng mở rộng và đôi khi là cả
hiệu năng nữa. Có thể liệt kê một số chương trình như Intel Application
Acceleration RAID Edition hay nVIDIA RAID Manager...
Chú ý chung:
Nếu
bạn đang có một ổ đĩa đầy dữ liệu và muốn thiết lập RAID 0, bạn phải
format ổ và làm lại mọi thứ. Vì thế hãy tìm cho mình một phương án sao
lưu phù hợp. Nếu sử dụng RAID 1 thì việc này không cần thiết.
Thông
thường với một hệ thống RAID 0 bạn nên có thêm một ổ cứng nhỏ để lưu
những thứ tối quan trọng phòng khi có trục trặc mặc dù rất khó xảy ra.
Khi
máy tính khởi động lại (đặc biệt là khi bị khởi động bất thường), có
thể hệ thống sẽ dừng lại khá lâu ở quá trình bộ điều khiển RAID nhận
diện các ổ đĩa, thậm chí có thể có nhiều tiếng động lạ phát ra ở phần cơ
đĩa cứng. Bạn không phải lo lắng vì điều này hoàn toàn bình thường do
bộ điều khiển phải đồng bộ hoạt động của tất các ổ trong nhóm RAID mà nó
quản lý.
Các
nhóm đĩa cứng RAID thường gồm vài ổ đĩa cứng hoạt động cạnh nhau nên
nhiệt lượng tỏa ra khá lớn, không có lợi về lâu dài. Bạn hãy tìm giải
pháp giải nhiệt nếu có điều kiện để tránh rắc rối ngoài ý muốn.
Kiểu RAID
|
Số lượng đĩa cứng
|
Tính bảo mật
|
Dung lượng cuối
|
Hiệu năng
|
Độ an toàn dữ liệu
|
Giá thành
|
0
|
1+
|
Bình thường
|
100%
|
Rất tốt
|
Kém
|
Rất Thấp
|
1
|
2
|
Tốt
|
50%
|
Khá
|
Tốt
|
Thấp
|
5
|
3+
|
Khá
|
(x-1)/x
|
Tốt
|
Tốt
|
Trung bình
|
0+1
|
4,6,8
|
Tốt
|
50%
|
Tốt
|
Tốt
|
Cao
|
TỔNG KẾT
Giá
trị mà RAID mang lại cho hệ thống là không thể phủ nhận - sự an toàn,
hiệu năng cao hơn tùy cấu hình. Thực tế cho thấy RAID 0 và 0+1 được ưa
chuộng nhất trong môi trường gia đình. RAID 0 nhanh nhất nhưng cũng nguy
hiểm nhất, chỉ cần một trục trặc là coi như mọi chuyện chấm dứt. Trong
khi đó RAID 1 mặc dù đem lại khả năng bảo đảm an toàn thông tin nhất
nhưng cũng thường đem lại cho người dùng cảm giác lãng phí (chi tiền cho
2 ổ cứng mà hiệu năng và dung lượng chỉ được 1). RAID 5 đem lại hiệu
năng cũng như độ an toàn cao nhưng thiết bị điều khiển thường khá đắt,
đó là chưa kể đến số tiền chi cho ổ cứng cũng nhiều hơn nên ít người
quan tâm trừ khi công việc cần đến. Chính vì thế, một số người dùng lại
quay sang hướng sử dụng các ổ đĩa SCSI để giải quyết vấn đề hiệu năng/an
toàn thông tin, tuy nhiên chi phí cho một hệ thống SCSI loại tốt có thể
còn đắt hơn nữa.
Nếu
để ý kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy chuẩn IDE có nhiều vấn đề ví dụ các ổ đĩa
không được thiết kế để chạy liên tục (rất quan trọng đối với các hệ
thống máy chủ), dây cáp ATA hiện tại còn quá cồng kềnh nên khi sử dụng
nhiều ổ đĩa sẽ dẫn tới hiện tượng chật kín case và trong trường hợp xấu
nhất, nhiệt lượng tỏa ra sẽ dẫn tới trục trặc hệ thống. Nhưng với công
nghệ ngày càng phát triển và những chuẩn mới như SATA ra đời, chắc chắn
RAID sẽ có một tương lai tươi sáng và trở thành người bạn đồng hành lý
tưởng cho các hệ thống máy tính cá nhân cao cấp.